
CÁCH SỬ DỤNG CÂU VĂN HÌNH ẢNH CHO BÀI VIẾT NGHỊ LUẬN VĂN HỌC








CÁCH SỬ DỤNG CÂU VĂN HÌNH ẢNH CHO BÀI VIẾT NGHỊ LUẬN VĂN HỌC


Link đăng ký lớp 8 nền tảng: https://forms.gle/evJN7YtmokJJ5bjZ6
Cách hình ảnh hóa luận điểm
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của lí luận văn học là chỉ ra sự khác biệt giữa tư duy nghệ thuật và tư duy khoa học: nếu khoa học khái quát đời sống bằng khái niệm, thì văn chương biểu hiện bằng hình tượng. Bởi vậy, trong nghị luận văn học, khi ta hình ảnh hóa một luận điểm, tức là biến một mệnh đề lí luận trừu tượng thành một hình tượng cụ thể, đó chính là sự nhập thân vào phương thức biểu hiện đặc thù của nghệ thuật. Chẳng hạn, thay vì chỉ nói “Nam Cao phản ánh hiện thực khốc liệt của xã hội nửa thực dân phong kiến”, ta có thể viết: “Ngòi bút Nam Cao như một tấm gương nghiêm khắc, hắt trả lại từng đường nét thô ráp, gai góc của kiếp người dưới ánh sáng không khoan nhượng của sự thật”. Ở đây, luận điểm vốn là mệnh đề khoa học (“phản ánh hiện thực khốc liệt”) đã được hình ảnh hóa thành “tấm gương nghiêm khắc”, phù hợp với đặc trưng phản ánh gián tiếp qua hình tượng mà lí luận văn học đã khẳng định. Theo quan niệm của Aristote, “Nghệ thuật không sao chép cái đơn nhất mà tái hiện cái có tính phổ quát”; còn theo mỹ học Mác – Lênin, hình tượng nghệ thuật là kết tinh của quá trình điển hình hóa. Vậy nên, việc hình ảnh hóa luận điểm không chỉ tạo nên sức gợi cảm xúc, mà còn bộc lộ năng lực nắm bắt và tái hiện quy luật thẩm mĩ của văn chương ngay trong thao tác nghị luận.
Cách vận dụng hình tượng nghệ thuật khác (liên văn bản)
Theo lí thuyết liên văn bản, mọi văn bản nghệ thuật đều tồn tại trong mối quan hệ đối thoại với những văn bản khác; sự tiếp nhận một tác phẩm bao giờ cũng chịu chi phối bởi ký ức văn hóa, truyền thống thể loại và dấu vết của những tác phẩm đi trước. Điều này cũng phù hợp với nhiệm vụ của lí luận văn học: xác định quy luật phát sinh, phát triển các trào lưu và phương pháp sáng tác, đồng thời lí giải tính kế thừa và tính sáng tạo trong nghệ thuật. Khi học sinh chuyên vận dụng hình tượng của tác phẩm khác để soi chiếu đối tượng nghị luận, các em không chỉ làm giàu thêm trường liên tưởng, mà còn đặt tác phẩm đang phân tích vào mạng lưới quan hệ rộng lớn của văn học. Ví dụ, khi viết về Vợ nhặt của Kim Lân, thay vì chỉ khẳng định đó là “tác phẩm ca ngợi khát vọng sống”, ta có thể đối chiếu: “Nếu thân phận chị Dậu trong Tắt đèn chỉ như ngọn đèn leo lét trước giông bão, thì Tràng và Thị trong Vợ nhặt lại là mầm cây nhỏ nhoi giữa hoang tàn, vẫn âm thầm vươn lên tìm ánh sáng”. Sự soi chiếu này vừa khẳng định nét mới mẻ trong phong cách Kim Lân, vừa thể hiện sự kế thừa truyền thống hiện thực – nhân đạo của văn học dân tộc. Vận dụng liên văn bản trong nghị luận cho thấy học sinh chuyên không tiếp cận văn chương như những mảnh rời rạc, mà như một hệ thống hữu cơ, trong đó mỗi tác phẩm là một mắt xích kết nối với quá khứ và hiện tại, tạo nên chiều sâu cho phân tích và sức nặng cho lập luận.
Cách so sánh liên tưởng
Trong thi pháp học, văn chương được xác định là hình thức phản ánh hiện thực thông qua hình tượng nghệ thuật, chứ không phải bằng khái niệm logic thuần túy. Bởi vậy, trong nghị luận văn học, khi học sinh chuyên sử dụng so sánh liên tưởng, thực chất ta đang thực hiện đúng “cái nguyên lí hình tượng” mà lí luận văn học đã khẳng định: nhận thức thẩm mĩ luôn khởi đi từ cái cụ thể, cá biệt, để vươn tới khái quát và phổ quát. Chẳng hạn, khi bàn về phong cách Xuân Diệu, thay vì chỉ diễn đạt “thơ Xuân Diệu trẻ trung, giàu sức sống”, người viết có thể so sánh: “Thơ Xuân Diệu như một khu vườn tháng Ba, rực rỡ hương sắc và luôn rung rinh bởi gió xuân căng tràn nhựa sống”. Hình ảnh ấy không đơn thuần là một phép tu từ, mà là kết quả của sự liên tưởng – vốn theo Aristote chính là cội nguồn của thi ca, bởi con người có “thiên tính bắt chước” và “thiên tính tìm kiếm cái chung”. Nhờ phép so sánh liên tưởng, câu văn nghị luận mang màu sắc thẩm mĩ, gắn kết lý trí với cảm xúc, vừa làm rõ luận điểm, vừa tái hiện bản chất nghệ thuật của đối tượng. Đây chính là minh chứng cho sự thống nhất giữa chức năng nhận thức và chức năng thẩm mĩ của văn chương mà lí luận văn học hiện đại nhấn mạnh.
Cách ẩn dụ khái quát
Ẩn dụ trong văn chương, theo quan niệm thi pháp, không chỉ là thủ pháp tu từ mà là một phương thức tư duy hình tượng đặc thù. Jakobson từng coi ẩn dụ là trục ngữ nghĩa cơ bản của nghệ thuật ngôn từ. Khi ta vận dụng ẩn dụ khái quát vào nghị luận, điều đó cho thấy năng lực nâng một hiện tượng cụ thể lên thành một biểu tượng bao quát. Ví dụ, bàn về bi kịch tha hóa của Chí Phèo, người viết có thể hình dung: “Chí Phèo là con thuyền lạc giữa dòng bão tố, càng khao khát cập bến nhân tình thì càng bị nhấn chìm trong định kiến xã hội”. Ẩn dụ “con thuyền” không chỉ gợi hình, gợi cảm, mà còn là sự “điển hình hóa” – khái niệm mà lí luận Mác-xít xem như đặc trưng cơ bản của nghệ thuật. Theo đó, văn chương không phản ánh hiện thực bằng sự sao chép cơ học, mà bằng việc sáng tạo nên những điển hình có sức khái quát quy luật. Đưa ẩn dụ vào nghị luận tức là học sinh chuyên đã biến lập luận thành một “hình tượng luận điểm”, vừa bảo đảm tính khoa học (nắm bắt bản chất xã hội, bi kịch tha hóa), vừa bảo đảm tính nghệ thuật (dẫn dắt người đọc bằng hình ảnh giàu biểu tượng). Đây là cách vận dụng triệt để đặc trưng của văn chương: phản ánh hiện thực bằng hình tượng mang giá trị phổ quát.
Hãy cho biết trải nghiệm của bạn với nội dung trên
Danh sách đánh giá (0 đánh giá)